Điểm Minsky và mô hình Kindleberger-Minsky: Nhìn lại một thập kỷ hậu khủng hoảng năm 2008 ở Việt Nam

Nổi bật

Độc giả hẳn vẫn còn nhớ, thời kỳ hoàng kim của bất động sản Việt Nam vào cuối những năm 2000. Giá nhà những năm 2007-2008 tăng từ 300% tới 500%. Điều này kéo theo tâm lý bầy đàn của các nhà đầu tư và việc tín dụng cho vay ồ ạt là điều dễ hiểu. Cũng chính vì thế mà điểm Minsky xuất hiện trên thị trường bất động sản Việt Nam vào năm 2008.

Điểm Minsky là gì?

Điểm Minsky (nguyên văn: Minsky’s moment) là thuật ngữ được dùng phổ biến để mô tả một điểm chuyển tiếp của nền kinh tế vào trạng thái suy thoái khi các khoản nợ xấu vượt quá tầm kiểm soát. Là người lớn lên vào thời kỳ đại suy thoái những năm 1930, Hyman Minsky dành phần lớn thời gian nghiên cứu về lý do dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Tại thời điểm đó, nghiên cứu của ông không được quan tâm nhiều vì hầu hết các học giả khác quan tâm tới việc làm thế nào để thị trường trờ nên hiệu quả hơn. Đó cũng là lý do tại sao những nghiên cứu của Minsky hầu hết bị quên lãng cho tới những năm 2000, khi cuộc khủng hoảng cho vay tín dụng thấp (nguyên văn: subprime-mortgage crisis) tàn phá nền kinh tế thế giới.

Để hiểu điểm Minsky, đầu tiên đọc giả cần phải nắm được ý nghĩa của đầu tư. Đầu tư đơn giản là đổi đồng tiền hôm nay để lấy đồng tiền ngày mai với giá trị sau lạm phát cao nhất trong những nơi có thể đầu tư. Doanh nghiệp hay tư nhân, để đầu tư vào một dự án sinh lời thì phải hoặc dùng chính dòng tiền tự có, hoặc đi vay. Việc cân bằng giữa vốn tự có và đi vay sẽ quyết định cách huy động vốn của thị trường tín dụng nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Theo Minsky (1992, trang 7-8), có 3 cách huy động vốn:

  • Huy động vốn an toàn (nguyên văn: hedge financing): là cách huy động vốn mà đối tượng đi vay có khả năng trả nợ bằng dòng tiền tương lai của mình. Trong trường hợp này, khoản nợ luôn nằm trong mức cho phép và dự án đầu tư của đối tượng đi vay sinh lời tịnh tiến.
  • Huy động vốn đầu cơ (nguyên văn: speculative financing): là cách huy động vốn mà đối tượng cho vay dựa vào dòng tiền tương lai để trả một phần nợ, phần còn lại sẽ gia hạn khi đáo kỳ. Trong trường hợp này, đối tượng đi vay sẽ dựa hoàn toàn vào việc nền kinh tế luôn ổn định và không suy thoái kéo dài.
  • Huy động vốn đa cấp (nguyên văn: Ponzi financing): là cách huy động vốn mà đối tượng đi vay không thể trả nợ bằng dòng tiền tương lai, mà phụ thuộc vào việc tài sản làm ra từ việc đầu tư sẽ tăng giá để cấn nợ. Nếu việc tăng giá không xảy ra, đối tượng đi vay sẽ vỡ nợ.

Một nền kinh tế với cách huy động vốn an toàn sẽ luôn ổn định. Ngược lại, huy động vốn đầu cơ hay đa cấp thường dẫn đến hệ lụy khó lường, mà bằng chứng là cuộc khủng hoảng nhà đất tín dụng thấp năm 2007-2009. Khi tài sản mua bằng các cách huy động vốn không an toan mất giá trị, các đối tượng đi vay không có khả năng trả nợ sẽ bán tháo tài sản, làm cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng.

Vậy tại sao lại luôn xuất hiện đối tượng đi vay không an toàn? Khi nền kinh tế đang trong thời kỳ ổn định và phát triển, việc vay nợ để tăng sãn xuất là điều tất yếu. Ngân hàng hạ thấp tiêu chuẩn cho vay để gia tăng tín dụng vì khả năng nợ xấu thường khó xảy ra khi nền kinh tế ổn định. Vòng xoay cho vay và đi vay này tiếp tục xoay cho tới điểm Minsky nếu các cách huy động vốn không an toàn chiếm đại đa số.

Hình 1: 3 cách huy động vốn, điểm Minsky, và tăng trưởng GDP (Nguồn: Pettinger, 2018)

Kết luận của Minsky: thời kỳ thịnh vượng kinh tế gieo mầm cho sự bất ổn tài chính (nguyên văn: periods of prolonged prosperity, the economy transits from financial relations that make for a stable system to financial relations that make for an unstable system.). Kết luận này là một sự thật rất đáng quan ngại khi chính phủ các nước ra sức giữ nền kinh tế ổn định sau cuộc khủng hoảng năm 2007-2009.

Mô hình Kindleberger-Minsky

Thị trường bong bóng xảy ra khi giá trị của cải đội giá do làn song đầu cơ lớn ập tới. Theo mô hình của Kindleberger-Minsky thì 3 loại đầu cơ bong bóng. (Kindleberger, 2005)

  • Loại đầu tiên là khi giá tăng đột biến và cũng giảm nhanh không kém. Trong trường hợp này, độ tăng giảm phụ thuộc vào tâm lý đầu cơ. Tốc độ tăng giá sẽ làm tăng khả năng rớt giá. Khả năng rớt giá sẽ xảy ra khi có một ngoại lực tài chính tác động làm cho giá nhanh chóng rơi về điểm ban đầu. Bitcoin vào cuối năm 2017 và đầu những năm 2018 là ví dụ điển hình.
  • Loại thứ hai là khi giá tăng và giữ ở một mức ổn định một thời gian, sau đó bắt đầu tuột dốc với tốc độ có thể gần nhanh bằng khi tăng giá. Đây là loại bong bóng khó phát hiện vì không có sự bán tháo mà chỉ đơn giản là thị trường không còn nhìn thấy tiềm năng trong việc đầu tư.
  • Loại thứ ba thường xuất hiện khi có biến động tài chính và cũng là loại phổ biến nhất. Bong bóng xuất hiện và sau đó giá cả bắt đầu giảm dần tới khi nhà đầu tư hoảng loạn và bán tháo.

Ví dụ điển hình nhất cho loại thứ ba đó là bong bóng nhà đất tín dụng thấp năm 2007-2009. Nhưng đó không phải lần đầu tiên bong bóng như thế xảy ra, chỉ đơn giản là các nhà đầu tư nhanh chóng quên lịch sử mà thôi. Trong tài liệu nghiên cứu của mình, Hoonhout (2012) đã viết về điểm Minsky qua bong bóng loại thứ ba. Hoonhout nghiên cứu về giá cà phê và bong bóng tín dụng thế chấp mua đồn điền cà phê những năm 1770 ở Suriname, nước từng là thuộc địa của Hà Lan. Khi giá cà phê tăng mạnh, các nhà đầu tư vay thế chấp tín dụng thấp và mua đồn điền, dẫn tới việc cho vay tín dụng thấp ngày càng phổ biến. Đỉnh điểm là năm 1770 khi các khoản cho vay ở mức cao nhất.

Hình 2: Các khoản cho vay tín dụng thấp cho các nhà đầu tư đồn điền cà phê. (Van Stipriaan, 2015, trang 216)

Thế nhưng việc quá tải đầu ra, hạn hán từ năm 1769 tới 1771, và bị xung đột liên tiếp đã làm giá cà phê rớt mạnh, dẫn đến việc các chủ đồn điền phá sản. Hình thức huy động vốn đa cấp diễn ra ở thời điểm đó đồng nghĩa với việc nhà đầu tư không thể trả tiền vay nợ bằng lợi nhuận bán cà phê, trong khi giá trị của đồn điền lao dốc làm họ bán tháo, càng làm sự việc trờ nên tồi tệ.

Hình 3: Gía cà phê ở Amsterdam những năm 1750 tới 1794 (Hoonhout, 2015)

Để ý rằng sau khi thị trường tín dụng thấp sụp đổ sau 1770, giá cà phê tăng vọt năm 1780, nhưng thị trường tín dụng không hề có dấu hiệu hồi phục. Điều này cũng đã xảy ra với các cuộc hồi phục kinh tế của Nhật sau 1990, Đức sau 2000, và thậm chí Mỹ sau 2009. Lưu ý. điểm Minsky chỉ có thể giải thích nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng, nhưng không đề cập tới việc khủng hoảng sau hậu khủng hoảng. Đó sẽ là vấn đề cho bài viết sau. Còn về việc bong bóng thị trường gần giống nhau xuất hiện, các nhà đầu tư luôn phải nhớ về câu nói của nhà văn Mark Twain: lịch sử không lịch lặp, nhưng nó có vần (Nguyên văn: History doesn’t repeat itself, but it often rhymes.)


Điểm Minsky ở Việt Nam: quá khứ và hiện tại

Đọc giả hẳn vẫn còn nhớ, thời kỳ hoàng kim của bất động sản Việt Nam vào cuối những năm 2000. Khi đó, giá nhà đất tăng liên tục và làn sóng người mua nhà bằng thế chấp cũng vì thế là leo thang. Giá nhà khi đó không phản ánh khách quan về quy luật cung cầu tự nhiên, như việc gia tăng dân số nhanh chóng, mức sống cao, việc tập trung và phát triền về kỹ thuật khoa học cộng nghệ, hay thậm chí đơn giản là sự đội giá của vật liệu xây dựng. Theo Trần Hải, giá nhà những năm 2007-2008 tăng từ 300% tới 500%. Điều này kéo theo tâm lý bầy đàn của các nhà đầu tư và việc tín dụng cho vay ồ ạt là điều dễ hiểu. Cũng chính vì thế mà điểm Minsky xuất hiện trên thị trường bất động sản Việt Nam vào năm 2008.

Đây là các bước cơ bản mở đường cho một điểm Minsky, khi việc huy động vốn đầu cơ và đa cấp chiếm đa số, song song với việc thị trường bất động bắt đầu rớt giá vào giữa năm 2008 cho tới khi sự hoảng loạn và bán tháo bắt đầu diễn ra. Hệ quả là việc nhiều nhà đầu tư bị mắc kẹt trong vòng xoáy của nợ thế chấp và sự xuống giá nhanh chóng của bất động sản mà họ đầu cơ. Còn về phía ngân hàng, tín dụng xấu làm nhiều ngân hàng chao đảo và phải chờ các gói giải cứu từ chính phủ, dẫn đến nợ tư đội nợ công. Vấn đề về sức khỏe tài chính ngân hàng Việt Nam đã từng được cho là nhạy cảm khi việc nhiều nhân vật kỳ cựu lần lượt xin thôi việc hoặc bị truy cứu trách nhiệm trước pháp luật

Vậy nếu ở Suriname, việc giá cà phê tăng dẫn tới việc thế chấp cho vay để mua đồn điền tăng, thì tại sao giá nhà ở Việt Nam lại tăng cho tới năm 2008, khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra? Việc gia tăng tín dụng vào cuối năm 2005 và đầu năm 2009 là một trong những lý do. Nhưng việc gia tăng tín dụng phục vụ cho mục đích khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác nhau. Điển hình nhất là việc Ngân Hàng Nhật Bản (Bank of Japan – BOJ) phân phối tín dụng sau thế chiến thứ hai và cuối những năm 1980.
Giáo sư Richard Werner đã rất nổi tiếng với nghiên cứu của ông về kinh tế Nhật trong cuốn sách Hoàng Tử Đồng Yên, trong đó ông chỉ ra rằng việc tạo tín dụng đầu tư cho các hoạt động tăng gia sản xuất mang lại lợi nhuận kinh tế sẽ luôn tạo nên của cải vật chất và tăng GDP một cách tự nhiên. Nhưng nếu tín dụng cho vay bị lạm dụng vào việc thổi phồng giá trị tài sản, thì sẽ không có sự gia tăng GDP tự nhiên, tức là không hề có dòng tiền lợi nhuận để bù vào khoản vay tín dụng ban đầu.

Những năm 1945-1970, BOJ bơm tín dụng chọn lọc, chỉ khuyến khích các ngành công nghiệp mang tính xuất khẩu và lựa chọn nhiều công ty dựa trên khả năng sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh nội bộ ngành và gia tăng chất lượng hàng hóa. Thế nên, kinh tế hậu thế chiến của Nhật là nền kinh tế xuất khẩu mạnh, dần chiếm ưu thế trên thương trường quốc tế, đến mức chính phủ Mỹ phải có biện pháp ngăn chặn tốc độ phát triển của Nhật để giảm thâm hụt xuất nhập khẩu. Đến cuối năm 1986, BOJ bất ngờ chuyển việc gia tăng tín dụng chọn lọc sang tín dụng ồ ạt và hệ quả là sự leo thang nhà đất chóng mặt. Đối với người tiêu dung và nhà đầu tư, khoản đầu tư lâu dài tốt nhất chính là nhà đất. Từ năm 1969 tới 1989, giá nhà đất ở Nhật Bản tăng từ 14.2 nghìn tỷ Yên tới 2000 tỷ Yên. Có thời điểm, các công ty sản xuất công nghiệp, như Nissa hay Toshiba, làm ra nhiều tiền hơn khi đầu tư tín dụng, khiến cho vấn đề đội giá càng trầm trọng. Điểm Minsky xuất hiện vào năm 1990 khi giá bất động sản ngừng tăng, kéo theo sự xuống cấp tín dụng thế chấp và dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề của Nhật Bản.

Hình 4: Tín dụng và giá bất động sản ở Nhật Bản 1980-2000 (Richard Werner, 2003)

Năm 2005, ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (State Bank of Vietnam – SVB) quyết định bơm tín dụng vào thị trường để tăng tiến độ phát triển kinh tế. Việt Nam đã thành công khi GDP trước lạm phát tăng (Hình 5). Nhưng việc tín dụng ồ ạt dẫn đến việc tập trung tín dụng vào nhà đất, giá bất động vì thế leo thang. Việc thị trường thế giới đi vào suy thoái kéo theo tụt dốc GDP khiến SVB một lần nữa bơm tín dụng vào thị trường hòng kích cầu. Điều đáng chú ý ở đây đó là ngoài tín dụng ồ ạt cho thị trường, thì có một phần tín dụng được tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước như Vinashin, Vinalines và EVN.

Các ngân hàng cho vay không hề nhận ra rằng, tại thời điểm đó, các doanh nghiệp nhà nước đầu tư và bành trướng qua những thị phần mà bản thân các doanh nghiệp đó gần như không có kinh nghiệm, cũng như sự tư vấn nào và hầu hết đếu đổ vào các lĩnh vực có liên quan tới bất động sản. Vinashin, hang đóng tàu lớn ở Việt Nam, đầu tư vào tài chính và làm bia (Hookway và Frangos, 2012); Vinalines cũng rót 370 tỷ đồng Việt Nam vào chứng khoán, ngân hàng, và bất động sản (Vietnam News, 2011); và EVN cũng đầu tư vào bất động sản, truyền thông, và ngân hàng (Grudgings, 2012).

Sau khi bong bóng nhà đất vỡ, không chỉ có nhà đầu tư bị thiệt hại, mà còn cả công ty nhà nước. Cả hai doanh nghiệp tàu biển, vào thời điểm 2010, được ước tính nợ tổng cộng 6,5 tỷ đô la Mỹ do thâm hụt ngân sách từ việc đầu tư thất bại và lỗ nặng trong việc kinh doanh tàu biển chính do hoạt động hàng hải không hồi phục như dự kiến (Grudgings, 2012). Còn tình hình tài chính của EVN thì chưa được công bố chính thức, nhưng có thể hệ lụy cũng không chừa công ty điện lực duy nhất của Việt Nam. Lịch sử lặp lại, và lần này Việt Nam cũng phải hứng chịu hậu quả nặng không kém gì Nhật những năm 1990.

Hình 5: Tín dụng và GDP trước lạm phát (Nguồn IMF, 2019, trang 16)

Kết luận, điểm Minsky luôn xuất hiện khi có một hiện tượng tài chính mang tính bầy đàn. Trong kinh tế, việc tạo tiến dụng và dòng tiền cần sự kiểm soát nghiêm ngặt và chiến lược cụ thể. Điều này hết sức quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới, khi chúng ta đối mặt với một trật tự thế giới hai cực (dẫn đến nhiều biến động về thương mại), nợ công cao, và, quan trọng nhất, là dân số già đi (Hình 6. Việc dân số già ảnh hưởng lớn tới chi tiêu phúc lợi, khả năng tiêu dung nội địa, và nguồn nhân lực lao động. Không phải ngẫu nhiên thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định khuyến khích có con trước 30 tuổi). Việc chính phủ tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chính sách giảm trần nợ công, chuyển hướng tín dụng ra khỏi thị trường nhà đất, giữ tiền tệ thả nổi trong khoảng 3%, và cường hóa hệ thống ngân hàng là bước đi hoàn toàn chính xác. Còn về chính sách lãi suất, thì cả một thập kỷ 2010-2020 đã cho thấy rằng, việc cắt lãi suất không dẫn đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế, và càng không hề tạo nên lạm phát. Thế nên, chính phủ Việt Nam nên giữ mức lãi suất đủ để ngân hàng có khả năng vận hành tốt, để chuyển hướng tín dụng vào các hoạt động tạo nên giá trị kinh tế đúng đắn.

Hình 6: Dân số lao động Việt Nam (Nguồn: IMF, 2019)
 

Nguồn
Grudgings, Stuart, 2012, Insight: Debt risks lurk in Vietnam’s unreformed state giants (tạm dịch: Nghiên cứu: Nguy cơ lỗ tiềm ẩn trong những công ty nhà nước của Việt Nam). Link: https://www.reuters.com/article/us-vietnam-statefirms/insight-debt-risks-lurk-in-vietnams-unreformed-state-giants-idUSBRE87M12F20120823
Hookway, James và Frangos, Alex, 2012, Vietnam Loses Glow as a Market Darling (tạm dịch: Ánh hào quang dần phai cho Việt Nam trên thương trường). Link: https://www.wsj.com/articles/SB10000872396390443779404577643220089349912
Hoonhout, Bram, 2012, Subprime Plantation Mortgages in Suriname, Essequibo, and Demerara, 1750-1800 (tạm dịch: Thế chấp vay đồn điền ở Suriname, Essequibo, và Demerara năm 1750-1800). Đại học Leiden. Link: https://openaccess.leidenuniv.nl/bitstream/handle/1887/18502/Thesis%20Bram%20Hoonhout.pdf?sequence=1.
Kindleberger, Charles P., 2005, Manias, Panics, and Crashes: A History of Financial Crisis, 5th edition. New York: John Wiley & Sons. Link: https://delong.typepad.com/manias.pdf
Minsky, Hyman P. (1992), Financial Instability Hypothesis (tạm dịch: Thuyết Bất Ổn Tài Chính), The Jerome Levy Economics Institutes of Bard College, luận án 74. Link: http://www.levyinstitute.org/publications/the-financial-instability-hypothesis.
Pettinger, Tejvan (2018) Financial Instability Hypothesis (tạm dịch: Thuyết Bất Ổn Tài Chính), Economics Help. Link: https://www.economicshelp.org/blog/6864/economics/financial-instability-hypothesis/
Stipriaan, Alex v. Surinaams Contrast (tạm dịch: phản ánh Suriname). Tập 13. Link: https://brill.com/view/title/23065
Trần Hải, 2019, Bong bóng nhà đất 2008: Thương vụ chấn động lịch sử, Thị Trường Today. Link: https://www.thitruong.today/tin-tong-hop/bong-bong-nha-dat-2008
Vietnam News, 2011, Vinalines to focus on core business (tạm dịch: Vinalines chuyển hướng tập trung cốt lõi). Link: https://vietnamnews.vn/economy/217102/vinalines-to-focus-on-core-business.html
Werner, Richard, 2003, Princes of the Yen (tạm dịch: Hoàng tử đồng Yên), Routledge Publication.

TG: Nguyễn Phán

Phân Tích Dòng Tiền – Nguyên Tắc Lưu Chuyển Tiền Tệ

Nổi bật

Phân tích dòng tiền góc nhìn tài chính với thực chất là với mục đích tìm ra khả năng, xu hướng cân đối dòng tiền cho nhu cầu của từng hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu dòng tiền của từng hoạt động. Từ đó giúp chủ doanh nghiệp nhận thức được dòng tiền dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong thanh toán, trong hoàn trả lãi, trong hoàn trả vốn huy động.

Dòng tiền chính là “Dòng Máu Nóng Của Doanh Nghiệp”.

Hoạt động kinh doanh vốn được ví như là trái tim của một cơ thể, còn dòng tiền chính là dòng máu nóng của cơ thể đó. Để xem xét một doanh nghiệp có “khỏe” hay không? Trước hết phải xem xét dòng máu nóng của doanh nghiệp có vận hành tốt không? Cũng giống như đang xem tình trạng sức khỏe của một con người.

Hơn 80% các doanh nghiệp SME gặp vấn đề về dòng tiền chảy liên tục trong doanh nghiệp, như: thiếu tiền nhập hàng, trả lương trễ cho nhân ciên, kế toán báo cáo chậm ảnh hưởng kế hoạch tài chính, trả chậm nhà cung cấp, hết tiền chạy marketing…

Trên thực tế, có rất nhiều cách thức và phương pháp để phân tích dòng tiền. Tuy nhiên, ở đây chỉ đưa ra các nguyên lý về dòng tiền để bạn đọc hiểu rõ về bản chất việc phân tích dòng tiền như sau:

PHÂN TÍCH DÒNG TIỀN – “HÃY CHÚ TRỌNG VÀO TIỀN MẶT”

Vì, “Lợi nhuận là phù du, tiền mặt là có thật”

Dòng tiền khác với lợi nhuận. Việc sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ là chìa khóa để hiểu tiền mặt, là huyết mạch của doanh nghiệp sẽ được quản lý hiệu quả như thế nào. Nhưng, trên thực tế trong bộ Báo cáo tài chính thì Báo cáo lưu chuyển tiền thường rất ít được quan tâm và sử dụng. Điều này được chứng mình qua hầu hết các Doanh nghiệp SME, nhân sự kế toán đa phần là không biết lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ chứ chưa nói đến là biết đọc và phân tích. Từ hệ lụy đó có thể suy ra rằng do nhu cầu thông tin của người lãnh đạo doanh nghiệp về dòng tiền chưa có, hoặc là do không biết có một loại báo cáo này đang tồn tại.

Mà chỉ biết rõ nhất là khi tiền mặt ngừng lưu thông thì doanh nghiệp đó không còn tồn tại nữa. Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thể hiện lợi nhuận được tạo ra trong kỳ kế toán nhưng lợi nhuận không phải là tiền mặt, mà điều quan trọng là phải biết được lượng tiền mặt thực tế thu vào và chi ra là bao nhiêu.

Ví dụ, khi đánh giá một dự án đầu tư thì một trong những key quan trọng nhất của phân tích dòng tiền là đánh giá được lượng tiền mặt thu về ở tương lai so với thời điểm hiện tại là bao nhiêu, khi đánh giá được rồi thì phải có những phương án gì để kiểm soát. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ sử dụng tiền mặt làm phương tiện khách quan để có thể kiểm tra được tính chính xác hiệu quả số dư tiền mặt.

Nguyên tắc sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ:

Ngày nay, nhìn chung báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường theo một dạng chuẩn dễ hiểu, dễ đọc mang lại nhiều lợi ích hơn. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được phân định thành các phần có ý nghĩa, cung cấp thông tin rõ ràng về việc luân chuyển tiền mặt trong các hoạt động chính của doanh nghiệp. Các hoạt động này bao gồm: Hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Để hiểu được báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần phải biết được những gì được xem là TIỀN MẶT. Tiền mặt là các khoản tiền mà doanh nghiệp có trong tay hoặc nhận ngay trong ngày, có nghĩa là tiền thu được ngay hay các khoản đặt cọc ngắn hạn.

Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ:

1. Hoạt động kinh doanh:

Dòng tiền hoạt động là dòng tiền thu vào, chi ra trong kỳ hiện tại. Chi tiền để mua hàng tồn kho, chi tiền để thanh toán lương cho nhân viên, thu tiền từ bán hàng hóa, thanh lý tài sản…là những ví dụ cho dòng tiền hoạt động.

Dòng tổng cộng thứ nhất trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ là quan trọng nhất, nó thể hiện số tiền có được từ hoạt động kinh doanh. Tiền tự do từ hoạt động kinh doanh được dùng để trả cho chủ sở hữu và chủ nợ. Vậy lấy tiền từ đâu mà trả ?

Dòng tiền được tạo ra từ doanh thu dịch vụ/sản phẩm, muốn tạo ra doanh thu thì phải bao gồm những thành tố cơ bản:

– Khấu hao tài sản: dòng tiền khấu hao giữ lại vì ban đầu đã đầu tư vào tài sản. Khấu hao tài sản cố định là một khoản phi tài chính (thực chất nó ko phải là tiền mặt). Dòng tiền khấu hao là khoản hoàn lại vốn đầu tư vào 1 tài sản sau khoảng thời gian nhất định nào đó thì khoản đầu tư này sẽ được hoàn lại. Từ đó khấu hao tăng lên qua các kỳ nghĩa là dòng vốn hoàn lại từ đầu tư ban đầu đang được thu về.

– Hàng tồn kho: dòng tiền phải trả cho nhà cung cấp

– Lương: dòng tiền phải trả cho người lao động

– Lãi vay: dòng tiền phải trả cho người cho vay

– Thuế thu nhập doanh nghiệp: dòng tiền phải trả cho Nhà nước

– Lợi nhuận sau thuế: dòng tiền giữ lại

—> Vậy dòng tiền từ hoạt động kinh doanh được giữ lại thể hiện trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm: Khấu hao tài sản và lợi nhuận sau thuế. Tiếp theo vốn lưu động hoặc tài sản lưu động từ bảng cân đối kế toán của năm trước và năm nay sẽ điều chỉnh bằng các khoản tăng/giảm về hàng tồn kho, các khoản phải thu, các khoản phải trả giữa hai kỳ. Nếu hàng tồn kho nhiều hơn năm trước, có nghĩ là phải chi tiền mặt ra. Nếu các khoản phải thu nhiều hơn năm trước, có nghĩa là khách hàng đang chiếm dụng vốn và vì thế doanh nghiệp sẽ ít tiền mặt hơn. Nếu các khoản phải trả nhà cung cấp nhiều hơn, có nghĩa là doanh nghiệp tạm thời đang chiếm dụng vốn và giữ nhiều tiền mặt hơn.

2. Hoạt động đầu tư:

Sau khi dòng tiền hoạt động kinh doanh đã được ghi nhận, chi phí vốn đầu tư sẽ được đưa tiếp vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Chi phí vốn đầu tư là những chi phí tạo ra lợi nhuận trong nhiều kỳ. Ví dụ, chi phí liên quan đến việc xây dựng và mua sắm, lắp đặt trang thiết bị cho một nhà xưởng sản xuất là chi phí vốn đầu tư vì nó tạo ra doanh thu trong nhiều năm. Để tính toán dòng tiền từ hoạt động đầu tư cũng căn cứ từ bảng cân đối kế toán giữ hai kỳ để xác định chênh lệch tăng/giảm của việc mua thêm tài sản, thanh lý tài sản.

3. Hoạt động tài chính:

Có hai nguồn tài chính là vay nợ và vốn chủ. Những khoản vay hay vốn góp là các nguồn tiền mặt, các khoản vay phải trả hay vốn cổ phiếu phải mua lại làm giảm lượng tiền mặt. Để tính toán sự biến động của dòng tiền tài chính cũng căn cứ vào bảng cân đối kế toán để xác định khoản chênh lệch tăng/giảm giữa hai kỳ kế toán.
Sự biến động về tiền mặt được thể hiện qua các khoản chênh lệch từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính. Các khoản chênh lệch này phải khớp với khoản chênh lệch giữa số tiền mặt năm nay và năm trước trên bảng cân đối kế toán.

Tất cả những hoạt động trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ đều liên quan đến hai báo cáo tài chính còn lại là Kết quả kinh doanh và Cân đối kế toán. Thể hiện mối quan hệ qua lại với nhau mật thiết giữa 3 báo cáo này. Nhưng để phân tích đơn giản hơn ta có thể chỉ cần một bảng cân đối kế toán thôi cũng đã thể hiện được dòng tiền lưu thông trong hiện tại. Vậy sự đơn giản đó sẽ được làm như thế nào ?

Phân tích bảng cân đối kế toán:

Được cấu thành từ 2 phần là TÀI SẢN và NGUỒN VỐN.

Tài sản gồm những yếu tố chỉ tiêu nào ?

Nguồn vốn gồm những yếu tố chỉ tiêu nào ?

Hai nội dung này các bạn làm kế toán đều rõ, chỉ có chủ doanh nghiệp là hơi gặp khó khăn chút.

1. Tài sản tăng khi nào? 

Hàng tồn kho tăng

Các khoản phải thu tăng

Các khoản đầu tư tài sản mới tăng

Các khoản khấu hao tăng (dòng vốn hoàn lại từ đầu tư ban đầu đang được thu về).

Các khoản khác thuộc tài sản tăng

—> Vậy, khi hàng tồn kho tăng so với kỳ trước, có nghĩa là phải chi dòng tiền ra để mua hàng về. Dẫn đến dòng tiền mặt giảm.

2. Tài sản giảm khi nào? 

Khi các chỉ tiêu trên giảm so với kỳ trước

—> Vậy, khi các khoản phải thu giảm so với kỳ trước, có nghĩa là dòng tiền thu về bán hàng nhiều hơn. Dẫn đến dòng tiền mặt tăng.

3. Nguồn vốn tăng khi nào? 

Các khoản nợ vay ngắn hạn, dàn hạn tăng

Các khoản phải trả cho nhà cung chưa thanh toán

Các khoản thuế phải nộp chưa nộp

Các khoản lương chưa thanh toán

Các khoản khác thuộc nguồn vốn tăng

—> Vậy, khi các khoản phải trả cho nhà cung cấp tăng so với kỳ trước, có nghĩa là dòng tiền chưa phải chi ra để thanh toán. Dẫn đến dòng tiền tăng.

4. Nguồn vốn giảm khi nào?

Khi các chỉ tiêu trên giảm so với kỳ trước

—> Vậy, Khi các khoản vay ngắn hạn ngân hàng giảm so với kỳ trước, có nghĩa là dòng tiền đã chi ra để trả nợ. Dẫn đến dòng tiền giảm.

Quy luật dòng tiền lưu thông 

Từ các phân tích trên ta có,

Quy luật 1: Tài sản tăng và nguồn vốn giảm, suy ra dòng tiền giảm (dòng tiền ra)

Quy luật 2: Tài sản giảm và nguồn vốn tăng, suy ra dòng tiền tăng (dòng tiền vào).

Việc kiểm soát tiền mặt là nhiệm vụ tài chính quan trọng hàng đầu của công việc quản lý. Các giám đốc cần hiểu rằng, lượng tiền mặt đến từ đâu và nó được chi tiêu như thế nào, bởi vì điều này có thể tạo ra sự khác biệt về thành công và khó khăn về tài chính.

Kiểm soát dòng tiền

Dù biết mà khó quản lý, chính là việc lên kế hoạch thu – chi chuẩn xác. Việc này đòi hỏi có một kế toán quản trị có thể đưa ra các ước tính cho doanh nghiệp. Có người giám đốc có thể điều chỉnh và quản lý thu chi đúng – đủ để doanh nghiệp không bị hụt hơi. Tránh gặp vấn đề thu – chi quá đà, nhất là khi các ước tính kinh doanh chưa chuẩn xác mà chưa có kế hoạch backup tài chính rõ ràng.

1. Có nhân viên hoặc kế toán giỏi đòi nợ

Hầu hết nhân viên thích bán hàng mà ngại đòi nợ. Để nợ xấu, nợ dài hạn. Bán được hàng mà tệ hơn cả không bán hàng. Vì thế, KPI của sales phải gắn liền với thu tiền.

2. Có nhân viên kế toán thanh toán khó và kỹ tính, đủ chứng từ mới duyệt, biết co kéo với nhà cung cấp

Ngọt ngào mà sắc sảo.

Quy trình thanh toán kỹ lưỡng sẽ hạn chế việc thanh toán quá sớm cho nhà cung cấp.

Các sếp tổng học cách thương lượng và trả lời các câu hỏi đòi nợ. Đôi khi gặp những câu nói khó nghe mà cứ phải mặt dạn mày nhíu. Khi công ty lớn sẽ ưu tiên các nhà cung cấp hỗ trợ khi công ty còn nghèo.

3. Làm kế hoạch thu – chi ngắn hạn và trung hạn

Bắt đầu từ báo cáo thu chi hàng ngày

– Báo cáo thu chi tuần

– Dự báo thu chi tháng

– Tăng lên dự báo quý

– Rồi dự báo thu chi năm…

Cách đi này hơi chậm nhưng đủ để người làm kế hoạch thu – chi cảm nhận được các hoạt động của doanh nghiệp và tỷ lệ.

Nhưng, bạn đừng đi ôm các form biểu hoành tráng từ các giảng viên hay các công ty lớn. Hãy bắt đầu từ những điều đơn giản. Khi bạn bắt đầu kiểm soát, thì ngay lập tức có cách và phương tiện.

Lưu ý: Bài viết phân tích dòng tiền chú trọng các yếu tố liên quan đến DÒNG TIỀN và việc Phân tích sức khoẻ tài chính trong doanh nghiệp nên có một số nguyên tắc sẽ trái ngược với kế toán.


Lưu ý khi lập kế hoạch dòng tiền

Khi lập kế hoạch dòng tiền cần lưu ý những điều sau:

– Bao quát và dự kiến toàn bộ các khoản tiền doanh nghiệp có thể thu được trong kỳ. Nói cách khác là dự đoán đầy đủ được dòng tiền vào và các khoản tiền cần chi tiêu trong kỳ. Cần phân biệt giữa doanh thu vào và dòng tiền vào, giữa chi phí và dòng tiền ra.

– Dự kiến về thời điểm nhận được các khoản thu bằng tiền và thời điểm phát sinh các khoản chi tiêu bằng tiền.

Với các bước lập kế hoạch dòng tiền trên, người dự báo phải nắm chắc được kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp, chính sách bán chịu, chính sách mua chịu, chính sách chiết khấu thanh toán, chính sách đầu tư, chính sách vay nợ, chính sách tín dụng phương thức trả nợ và chính sách phân phối lợi nhuận…

Mẫu lập kế hoạch dòng tiền

Dưới đây là ví dụ minh họa về mẫu lập kế hoạch dòng tiền của doanh nghiệp.

Một danh nghiệp A dự kiến bắt đầu từ tháng 1 năm X đi vào hoạt động kinh doanh. Với các tài liệu liên quan đến kế hoạch kinh doanh 6 tháng đầu năm:

1a. Doanh số bán ra

ThángDoanh số bán ra (triệu đồng)
1300
2400
3500
4600
5700
6600

1b. Việc thanh toán thu tiền bán hàng dự kiến

– 20% trả tiền ngay khi xuất giao hàng.

– 70% thanh toán vào tháng thứ 2 kể từ tháng xuất giao hàng.

– 10% thanh toán vào tháng thứ 3 kể từ tháng xuất giao hàng.

2a. Dự kiến mua sắm các vật tư như sau

ThángDoanh thu bán hàng (triệu đồng)
12 năm X -1130
1 Năm X150
2 Năm X150
3 Năm X230
4 Năm X400
5 Năm X300
6 Năm X250

2b. Các nhà cung cấp vật tư chấp nhận việc thanh toán trả tiền mua hàng: Mua tháng này trả tiền vào tháng sau.

3. Chi phí tiền lương, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí khác phải trả tiền trong tháng. (đơn vị: triệu đồng)

Khoản chiTháng 1Tháng 2Tháng 3Tháng 4Tháng 5Tháng 6
Tiền lương5080100110120110
Dịch vụ mua ngoài202020202020
Chi phí khác bằng tiền101010101010

4. Trong tháng 3 phải trả 600 triệu đồng cho việc mua sắm trang thiết bị.

5. Số dư vốn bằng tiền ngày 31/12 năm X – 1 là 280 triệu đồng.

Trên cơ sở tình hình và số liệu như trên có thể lập kế hoạch chu chuyển tiền tệ 6 tháng đầu năm như sau:

Bảng kế hoạch dòng tiền 6 tháng đầu năm X

(đơn vị: triệu đồng)

TTNội dungTháng 1Tháng 2Tháng 3Tháng 4Tháng 5Tháng 6
IDòng tiền vào      
1Dòng tiền vào thu từ hoạt động kinh doanh      
aDoanh thu bán ra300400500600700600
bThu tiền bán hàng      
 Tháng thứ nhất (20%)6080100120140120
 Tháng thứ hai (70%) 210280350420490
 Tháng thứ ba (10%)  30405060
2Dòng tiền từ hoạt động đầu tư      
3Dòng tiền từ hoạt động tài chính      
 Cộng dòng tiền vào60290410510610670
IIDòng tiền ra      
1Dòng tiền ra từ hoạt động kinh doanh      
 Tiền mua vật tư130150150230400300
 Tiền lương5080100100120110
 Dịch vụ mua ngoài202020202020
 Chi phí khác101010101010
2Dòng tiền ra từ hoạt động đầu tư      
 Tiền trả thiết bị  600   
3Dòng tiền ra từ hoạt động tài chính      
 Cộng dòng tiền ra210260880360550440
IIIDòng tiền thuần trong kỳ(150)30(470)15060230
IVTiền tồn đầu kỳ280130160(310)(160)(100)
VTiền tồn cuối kỳ130160(310)(160)(100)130
VIMức dư tiền cần thiết110110110110110110
VIISố tiền thừa hay thiếu2050(420)(270)(210)20

Qua xem xét trên bảng kế hoạch dòng tiền trên có thể thấy: Doanh nghiệp bị thiếu vốn bằng tiền trong các tháng 3, 4, 5. Doanh nghiệp cần xem xét khả năng vay vốn và các biện pháp cần thiết khác. Trong tháng 1, 2 và tháng 6, vốn bằng tiền vượt mức tối thiểu cần thiết, có thể xem xét khả năng đầu tư ngắn hạn để tăng mức sinh lời của đồng tiền.

Vũ Xuân Hải 

DISC là gì? 4 nhóm tính cách cá nhân của DISC

DISC là gì?

DISC là viết tắt của 4 từ tiếng Anh bao gồm Dominance (sự thống trị) – Influence (ảnh hưởng) – Steadiness (bền vững) – Compliance (tuân thủ). Đây là công cụ đánh giá cá nhân giúp xác định tính cách tại một thời điểm nhất định qua hành vi của họ. Thông qua đó, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp và hiệu suất sẽ cải thiện đáng kể.

DISC là công cụ đắc lực trong việc đánh giá tính cách

Ngôn ngữ chung sử dụng khi giải thích mô hình DISC là gì phổ biến với mọi đối tượng. Điều này đã làm cho mọi người hiểu hơn về bản thân và cách mà họ tương tác. Kiến thức đúc rút ra giúp giảm bớt mâu thuẫn. Các mối quan hệ trong môi trường làm việc cũng cải thiện đáng kể.

Khám phá 4 nhóm tính cách với công cụ DISC

Sau khi đã hiểu DISC nghĩa là gì, bạn cần khám phá từng nhóm phân loại tính cách sâu hơn. Mô hình này chia ra làm 4 nhóm chính, có tên bắt đầu bằng các chữ D, I, S,C. Mỗi loại sẽ định hình nên những con người có vai trò và sứ mệnh khác nhau.

Trong thực tế, tính cách mỗi người có thể là sự giao thoa giữa hai nhóm. Vì thế, bạn không cần lo lắng nếu kết quả test DISC không rơi chính xác vào 1 phần tư. Việc quan trọng là tìm ra những đặc điểm nổi bật của bản thân. Các nhóm phân loại dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn DISC là gì.

1. Nhóm người thống trị

Đó là đối tượng cần nhắc đến đầu tiên khi nói về DISC là gì. Nhóm người này có mô tả chung bắt đầu bằng chữ D trong Dominance (thống trị). Đây cũng chính là đặc điểm nhận diện chung nhất khi nói về 1 trong 4 đối tượng. Họ luôn cố gắng, nỗ lực để đạt được mục tiêu đã đề ra. 

Quyền lực và sự chiến thắng là khao khát của nhóm thống trị

Những người thuộc nhóm này cũng có tài bao quát bức tranh toàn cảnh của sự việc nào đó. Điều này đạt được là do khả năng đánh giá, phân tích và có cái nhìn đa chiều. Sự tự tin là điều dễ dàng cảm nhận thấy từ những cá nhân này.

Bên cạnh đó, họ cũng rất thẳng thắn và có phần bộc trực trong nhiều tình huống. Nguyên nhân là họ muốn đi thẳng vào vấn đề, nhanh chóng tìm ra hướng giải quyết. Tuy nhiên, những ai thuộc nhóm Dominance cũng rất hay đòi hỏi từ người khác.

Họ cố gắng hiện thực hóa ý tưởng bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Sẵn sàng chấp nhận rủi ro là nhân tố quan trọng khác giúp đối tượng này đạt vinh quang. Ý chí mạnh mẽ, có định hướng là điều nổi bật ở nhóm Dominance khi giải thích DISC là gì.

Slogan của những người thuộc nhóm thống trị sẽ giúp bạn hiểu hơn về họ. Đó là: “Nếu không đặt mục tiêu cuối cùng là chiến thắng, cuộc chơi sẽ trở nên vô nghĩa”. Các bài test DISC chỉ ra các cá nhân Dominance nên nắm giữ vai trò như sau:

– Nhà phát triển.

– Nhà định hướng.

– Người truyền cảm hứng.

– Sáng tạo.

2. Nhóm người có tầm ảnh hưởng

Khi nghiên cứu DISC là gì, bạn cũng nên xem xét kỹ về các cá nhân sau đây. Những ai thuộc nhóm này được tổng quát bằng từ Influence(sự ảnh hưởng). 

Đúng như tên gọi, họ là người chú trọng vào việc tác động hoặc thuyết phục đối tượng khác. Bạn dễ dàng nhận ra các cá nhân như vậy thông qua các xu hướng tính cách, bao gồm:

– Nhiệt tình.

– Lạc quan.

– Cởi mở.

– Có sự tin tưởng.

– Tràn đầy năng lượng.

Động lực để làm việc của những người trong nhóm Influence là sự công nhận từ xã hội. Họ thường tham gia và các hoạt động theo nhóm và mạng lưới mối quan hệ. Tạo ra sự hợp tác, phối hợp là ưu tiên hàng đầu để phát huy hết tiềm năng.

Tuy nhiên, tầm ảnh hưởng cũng chính là điểm yếu của những người này trong tình huống nhất định. Họ rất sợ mình sẽ mất đi vai trò tác động của mình. Khi bị từ chối hoặc bị lờ đi cũng khiến nhóm người này cảm thấy tổn thương.

Nhìn vào ưu thế và bất lợi ở mỗi nhóm giúp bạn hiểu toàn diện hơn về DISC là gì. Nhận ra khiếm khuyết để thay đổi chính là mục đích cốt lõi. Qua đó, việc nghiên cứu công cụ mới đem đến hiệu quả rõ rệt.

Thay vì tập trung vào thái độ của người khác, hãy hướng bản thân tới những nhiệm vụ cụ thể. Để tự tin hơn, bạn nên nhớ rằng đây là nhóm thiết yếu khi giải thích DISC là gì. Bạn cũng sẽ phát huy tốt tiềm năng khi nắm giữ những vai trò sau đây:

– Nhà quảng cáo.

– Nhà thuyết giảng.

– Người cố vấn.

3. Nhóm người kiên định

Những người thuộc nhóm kiên định luôn thu hút những lời mời hợp tác. Điều này có được nhờ vào sự chân thành, gắn bó dài lâu và đáng tin cậy. Khác với Dominance, những ai thuộc Steadiness không ưa thích sự nóng vội.

Sự kiên định biến những cá nhân này trở thành người đáng tin cậy

Trong mọi tình huống, họ có xu hướng bình tĩnh, thận trọng cân nhắc vấn đề.  Sự nhất quán và ổn định thể hiện rõ ràng từ lời nói đến hành động. Vì thế, vai trò của nhóm này không thể bỏ qua khi nói đến DISC là gì.

Mặt khác, những người này cũng nên có điều chỉnh trong từng hoàn cảnh. Bởi lẽ, tính cách trung thành, khiêm tốn làm họ tự ép buộc mình vào tình huống khó khăn. Vì thế, rèn luyện sự tự tin và bộc lộ cảm xúc thật là chìa khóa dẫn đến thành công.

Ai thuộc nhóm kiên định thường có công việc mang tính lâu dài. Trong mọi chuyện, họ luôn giữ kín bí mật của đối phương và mong muốn giúp đỡ người khác. Vì thế, DISC nhận diện tích cách đã đưa ra kết quả về việc làm phù hợp bao gồm:

– Chuyên gia.

– Đặc vụ.

– Điều tra viên.

Những công việc này cũng rất đúng với tên gọi khác để định nghĩa nhóm này. Đó chính là người gìn giữ hòa bình(The Peacekeeper). Đây thực sự là đối tác đáng tin cậy cho những dự án mang ý nghĩa nhận đạo.

4. Nhóm người tuân thủ

Người tuân thủ là nhóm cuối cùng trong mô hình, giúp bạn đọc hiểu toàn diện về DISC là gì. Họ rất chú trọng đến chất lượng làm việc với độ chính các cao. Vai trò của các cá nhân này được khẳng định thông qua chuyên môn và năng lực thực sự.

Nhóm tuân thủ phù hợp công việc đòi hỏi chuyên môn cao

Những người này cũng ưa thích làm việc trong môi trường độc lập. Các nhiệm vụ có yêu cầu cao về chi tiết và tỉ mỉ nên được giao cho nhóm này. Ngoài ra, tư duy logic dựa trên kiến thức chuyên môn cũng là thế mạnh cần tận dụng.

Bên cạnh điểm mạnh kể trên nhóm này cũng tồn tại những điểm yếu. Nếu biết điều chỉnh đúng cách, họ sẽ đạt được nhiều thành tựu. Bảng tổng hợp sau giúp bạn hình dung rõ hơn về các đặc trưng và công cụ DISC là gì.

Yếu tố phân tíchGiải thích ý nghĩa
Điểm mạnhHọ luôn tập trung, theo sát quy trình làm việc. Từ đó, kết quả đem lại là:- Chất lượng cao.- Đảm bảo độ chính xác.
Điểm yếuDo thường làm việc rập khuôn nên họ có các điểm yếu như:- Sợ sự kỳ thị.- Sợ bị sai hoặc chỉ trích.- Bày tỏ cảm xúc một cách mạnh mẽ.Đây là một số đặc trưng khi giải thích DISC là gì trên lý thuyết. Thực tế, bạn sẽ bắt gặp những biểu hiện khác tương tự.
Cách cải thiện hiệu quảĐể phát huy điểm mạnh và sống tích cực hơn, họ nên làm những điều sau:- Chấp nhận cảm xúc, phản ứng của người khác.- Mở rộng tầm nhìn, không nên quá chú trọng tiểu tiết.

Tại sao nên sử dụng DISC?

Việc hiểu DISC là gì cùng với cách phân chia các nhóm tính cách đem lại nhiều lợi ích. Mô hình này đem đến những sự thay đổi đáng kể cho các tổ chức cũng như cá nhân. Mục đích sử dụng phổ biến sẽ được chia sẻ đến bạn trong phần sau đây.

Trong môi trường làm việc

Các công ty nên đưa mô hình đánh giá DISC vào nội bộ để đánh giá nguồn nhân lực. Thông qua đó, họ sẽ nắm bắt được điểm mạnh và yếu của từng cá nhân. Mỗi người sẽ được giao cho những nhiệm vụ phù hợp với tính cách, năng lực.

Hiệu quả làm việc tăng lên đáng kể nhờ việc đánh giá chính xác năng lực

Đây cũng là cách để nhân viên biết cách phối hợp, nâng cao hiệu quả làm việc nhóm. Họ hiểu rằng để làm tốt công việc cần có sự hợp tác. Từ đó, tinh thần đoàn kết trong công ty, tổ chức cũng được bồi đắp lớn mạnh hơn.

Tôn trọng sự khác biệt và không phán xét cũng là kết quả đem lại khi đánh giá đúng DISC. Mọi người sẽ hiểu rằng mỗi cá nhân sẽ có vai trò và vị trí khác nhau. Việc tồn tại điểm yếu không phải là thứ để mang ra phán xét. Thay vào đó, hãy cùng nhau cố gắng để nâng cao hiệu suất công việc.

Nhờ vào DISC, các nhà lãnh đạo dễ dàng hơn trong việc quản lý nhân viên các cấp. Họ dựa trên tính cách để điều động và sử dụng nhân tài đúng lúc, đúng chỗ. Từ đó, chi phí đào tạo cũng như các lãng phí về tài nguyên giảm đi đáng kể.

Bộ phận nhân sự và người đứng đầu nên bắt tay ngay vào tìm hiểu DISC là gì. Để từ đó đưa ra những chiến lược phù hợp cho từng thanh viên trong tổ chức.

Trong cuộc sống

Trong cuộc sống, cá nhân cũng được khuyến khích tham gia mô hình. Bởi lẽ, đây là cách nhanh nhất giúp nâng cao nhận thức về bản thân. Nắm rõ điểm yếu dựa trên giải thích DISC là gì giúp tìm ra giải pháp đương đầu xung đột.

DISC giúp cuộc sống trở nên dễ dàng hơn

Hiểu thế mạnh giúp bạn chạm đến thành công một cách nhanh chóng hơn. Thay vì phải thử và sai nhiều lần, bạn chỉ cần tận dụng ưu thế và tiến lên. Khi biết rõ bản thân là bạn đã đi được nửa quãng đường rồi đó.

Các bài test trắc nghiệm DISC giống như kim chỉ nam cho nhiều đối tượng. Không chỉ những người đi làm mà cả các bạn học sinh cũng dựa trên kết quả đánh giá. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ xây dựng nên chiến lược phát triển bản thân phù hợp.

Khi mới tiếp cận, người dùng nên bắt tay vào tìm hiểu khái niệm DISC là gì. Tiếp đó, bạn nên tìm để những website uy tín để thực hiện bài kiểm tra. Sự kết hợp này giúp việc đọc kết quả chính xác hơn nhiều.

Trên đây là những phân tích giúp bạn hiểu đúng hơn về ứng dụng của mô hình DISC. Hi vọng rằng bạn sẽ sớm phát hiện ra điểm mạnh và đặt ra định hướng chính xác. Mọi thứ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều khi biết đến DISC là gì và thực hành ngay hôm nay.

Quy tắc 2 phút giúp bạn thoát khỏi sự trì hoãn

Hầu hết chúng ta đều có thể tự làm mọi việc nhưng chúng ta thường không làm ngay. Đó là sự trì hoãn.

Chỉ 2 phút để loại bỏ sự trì hoãn hay sự lười biếng, buộc bạn phải hành động thay vì nói “không”.

1. Quy tắc 1: Hãy làm ngay nếu việc đó m.ất chưa đến 2 phút

Có rất nhiều việc lặt vặt hàng ngày, m.ất rất ít thời gian, thậm chí không m.ất quá 2 phút. Nhưng điều gì xảy ra nếu bạn cứ trì hoãn đến ngày mai hay đến cuối tuần. Và rồi bạn sẽ thấy mình luôn ng.ậ.p trong cả núi việc. Vậy hãy làm ngay những việc đơn giản chưa m.ất tới 2 phút.

Hãy nhìn quanh nhà bạn xem, chẳng hạn như: Cất vài cuốn sách bày ở trên sàn nhà lên kệ, đổ r.ác, rửa bát đũa sau khi ăn xong, gấp quần áo khô,…

Hãy tạo thói quen làm những việc nhỏ ngay lập tức vì nó chỉ tốn của bạn không đến 2 phút.

2. Quy tắc 2: Tạo thói quen bắt đ.ầ.u công việc trong vòng 2 phút

Bạn không thể làm xong mọi việc trong vòng 2 phút. Đương nhiên rồi! Nhưng bạn thử bắt đ.ầ.u làm việc gì đó trong 2 phút xem:

Đi tập gym: Xỏ giày vào và bước ra khỏi cửa chắc chắn dưới 2 phút.
Học bài: Lấy bài vở ra và bắt đ.ầ.u làm chắc chắn dưới 2 phút.
Học tiếng Anh: Bật đĩa CD lên để nghe chắc chắn dưới 2 phút.
Tạo thói quen đọc sách: Đọc trang đ.ầ.u tiên của cuốn sách chắc chắn dưới 2 phút.

Mục tiêu chính của nguyên tắc này là tạo ra một quán tính trong cuộc sống, một khi bạn đã “d.ấn th.ân” vào làm việc rồi thì sẽ dễ dàng tiếp tục hoàn thành nốt phần còn lại của mục tiêu trong công việc đó.

Điều quan trọng nhất là bạn phải tạo một thói quen mới cho mỗi công việc và duy trì đều đặn cho các lần tiếp theo. Nghĩa là bạn phải tạo thói quen một cách kiên định.

Trong cuộc sống, nếu bạn không bắt đ.ầ.u thực hiện một công việc thì bạn sẽ không thể hoàn thành được nó. Quy tắc 2 phút không đảm bảo là bạn sẽ đạt được kết quả mong muốn nhưng nó sẽ tạo cho bạn thói quen thoát khỏi sự trì hoãn. Một khi bạn đã bắt đ.ầ.u hành động thì mọi việc sẽ “thuận theo tự nhiên” mà hoàn thành.